Trước đây, các tác giả ở Miền Nam xác định văn học hiện đại bắt đầu từ năm 1862 và các tác giả ở Miền Bắc là vào năm 1930. Hiện nay đã có sự thống nhất cao độ khi cho rằng văn học hiện đại Việt Nam thật sự xuất hiện ngay từ buổi đầu của thế kỉ XX.
Vấn đề mà chúng tôi muốn nói là cái mốc 1930. Rõ ràng đây là cái mốc vô cùng quan trọng về lịch sử, chính trị, xã hội. Thế nhưng về văn chương lại chẳng nổi lên điều gì. Phải đưa sự phát triển của văn học về với năm 1932 vì đây là thời điểm xuất hiện của phong trào thơ mới và cũng là của Tự lực văn đoàn. Y nghĩa của nó là ở chỗ đó. Từ đây chúng ta dễ dàng hình dung ra bộ mặt văn học hiện đại qua các chặng đường phát triển là văn học 1900 – 1932; Văn học 1932 – 1945; Văn học 1945 – 1975; Văn học 1975 – 2000.
Trong giáo trình Văn học Việt Nam 1900 – 1945, phần 1900 – 1930 (đúng ra phải là 1932) là của các tác giả Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng. Có thể nói phần này được thực hiện bởi ngòi bút rất uyên bác. Có điều cách viết khá nặng nề. Nếu học trò của các giáo sư Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng có điều kiện viết lại thì chỉ cần làm cho nhẹ nhàng hơn. Điều chúng tôi muốn nói ở đây là sự chú ý chưa đúng mức về văn xuôi quốc ngữ, đặc biệt là văn xuôi quốc ngữ Nam bộ. Nó xứng đáng được xem là một bộ phận quan trọng của văn học hiện đại trong buổi đầu của sự phát triển.
Phần văn học 1930 (đúng ra là phải 1932) – 1945 của giáo trình trên là rất phức tạp. Quan điểm nhìn nhận đánh giá của các tác giả chủ yếu vẫn là quan điểm nhìn nhận đánh giá từ những năm sáu mươi của thế kỉ trước. Sự đổi mới chưa được bao nhiêu và nhìn chung là chưa thể hiện được quan điểm hiện nay. Việc chia văn học 1030 – 1945 thành ba dòng như thói quen trước đây là không hợp lý vì không cùng tiêu chí. Nên chăng chia ra thành hai bộ phận (công khai hợp pháp và bí mật bất hợp pháp) thì sẽ thuyết phục hơn.