Bài thơ về tiểu đội xe không kính là tác phẩm của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Bài thơ được sáng tác năm 1969 trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, ca ngợi tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm bất chấp mọi khó khăn, nguy hiểm nơi chiến trường của người lính lái xe ở Trường Sơn.
Bài thơ này trong chùm thơ đạt giải nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969 (Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Lửa đèn, Nhớ, Gửi em cô thanh niên xung phong) và được tác giả đưa vào tập thơ Vầng trăng quầng lửa (1970). Năm 1971, bài thơ này được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc thành bài hát Tiểu đội xe không kính.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính được viết theo thể thơ tự do và gồm có bảy khổ. Bài thơ được giới thiệu trong sách Ngữ văn lớp 9 tập một, trang 132 (sách của Bộ GD-ĐT, tái bản lần thứ 11).
Mục lục
Nhà thơ Phạm Tiến Duật
Nhà thơ Phạm Tiến Duật (1941-2007) quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Sau khi tốt nghiệp khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội, năm 1964 Phạm Tiến Duật gia nhập quân đội, hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn và trở thành một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ cứu nước.
Phạm Tiến Duật là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và được đánh giá là một trong những gương mặt tiêu biểu của nhà thơ trẻ Việt Nam trong thời kỳ này.
Thơ Phạm Tiến Duật có màu sắc sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, hóm hỉnh và sâu sắc, đặc biệt ngang tàng đậm chất lính. Các tác phẩm của ông tập trung thể hiện hình ảnh người lính và thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.
Nội dung của bài thơ
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Ðã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Hoàn cảnh sáng tác
Nắm được kiến thức về hoàn cảnh sáng tác Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật sẽ giúp các em dễ dàng tiếp thu kiến thức về tác phẩm và cảm nhận được những điều mà tác giả thể hiện qua bài thơ.
Hoàn cảnh sáng tác bài thơ về tiểu đội xe không kính: Bài thơ về tiểu đội xe không kính được sáng tác năm 1969 trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra vô cùng gay go, ác liệt. Ở đó, không lực Hoa Kì ngày đêm trút bom, vãi đạn hòng ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho chiến trường miền Nam. Vượt qua mưa bom bão đạn của kẻ thù, đoàn xe vận tải vẫn ngày đêm bất chấp gian khổ và hi sinh để ra trận. Là thành viên của đoàn 559 vận tải chiến đấu ở Trường Sơn, từng lái xe trên tuyến đường Trường Sơn, Phạm Tiến Duật sáng tác bài thơ lấy cảm hứng từ hiện thực những chiếc xe tải ngày đêm vận chuyển nhu yếu phẩm chi viện cho miền Nam bị bom giật, bom rung khiến chúng không còn cửa kính.
Phạm Tiến Duật đã ghi lại những hình ảnh tiêu biểu của nơi khói lửa Trường Sơn. Có thể nói, hiện thực đã đi thẳng vào trang thơ của tác giả và mang nguyên vẹn hơi thở của cuộc chiến. Ra đời trong hoàn cảnh ấy, bài thơ với âm điệu hào hùng, khỏe khoắn đã thực sự trở thành hồi kèn xung trận, trở thành tiếng hát quyết thắng của tuổi trẻ Việt Nam thời kì chống Mỹ. Cảm hứng từ những chiếc xe không kính đã làm nền để nhà thơ chiến sĩ khắc họa thành công chân dung người chiến sĩ lái xe: ung dung tự tại, lạc quan sôi nổi, bất chấp mọi khó khăn gian khổ , tình đồng chí đồng đội gắn bó tình yêu đất nước thiết tha…
Hoàn cảnh lịch sử ra đời Bài thơ về tiểu đội xe không kính: cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ đang trong giai đoạn diễn ra vô cùng ác liệt. Từ giảng đường đại học, hàng vạn sinh viên đã tình nguyện gác bút nghiên để lên đường đánh giặc. Khi đó, tuyến đường Trường Sơn được coi là con đường huyết mạch nối liền hậu phương với tiền tuyến, chính vì vậy, nơi đây ngày đêm đều phải hứng chịu bom đạn phá hoại của kẻ thù.
Bài thơ thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong kháng chiến chống Mỹ với giọng thơ sôi nổi, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc. Hình ảnh người chiến sĩ lái xe có tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm coi thường hiểm nguy, sống sôi nổi trẻ trung chan hoà trong tình đồng đội, có ý chí chiến đấu vì miền Nam ruột thịt.
Qua hình tượng người lái xe trên tuyến đường Trường Sơn thời chống Mỹ tác giả đã khắc họa đời sống tâm hồn; hoàn cảnh sống và chiến đấu; phẩm chất của người lính nơi chiến trường.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính đã tạc vào thế kỷ 20 một bức tượng đài chiến sĩ: tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan yêu đời, dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm, lòng yêu nước và khát vọng giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Bài thơ như một thước phim tái hiện thời kỳ lịch sử vô cùng gian khổ hy sinh nhưng cũng rất vẻ vang của dân tộc.
Phân tích bài thơ về tiểu đội xe không kính
Hướng dẫn phân tích bài thơ về tiểu đội xe không kính gồm các bước phân tích đề, hệ thống luận điểm, lập dàn ý và sơ đồ tư duy.
Phân tích đề
– Yêu cầu của đề bài: phân tích bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính.
– Phạm vi tư liệu, dẫn chứng: các từ ngữ, hình ảnh, chi tiết tiêu biểu trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính.
– Phương pháp lập luận chính: phân tích.
Hệ thống luận điểm
– Luận điểm 1: Hình ảnh những chiếc xe không kính – biểu tượng cho hiện thực tàn khốc của chiến tranh.
– Luận điểm 2: Hình ảnh người lính lái xe với tư thế hiên ngang, lạc quan, phẩm chất cao đẹp.
Lập dàn ý chi tiết
a) Mở bài
– Giới thiệu sơ lược về tác giả Phạm Tiến Duật
+ Phạm Tiến Duật (1941 – 2007) là nhà thơ lớn, có nhiều sáng tác, trưởng thành trong đội ngũ các nhà thơ thời kháng chiến chống Mỹ.
– Giới thiệu khái quát Bài thơ về tiểu đội xe không kính
+ Bài thơ về tiểu đội xe không kính được sáng tác trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ, ca ngợi tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, chiến đấu vì miền Nam ruột thịt của các chiến sĩ lái xe Trường Sơn.
b) Thân bài
* Khái quát hoàn cảnh sáng tác bài thơ:
– Bài thơ được sáng tác trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra rất gay go, ác liệt. Từ khắp các giảng đường đại học, hàng ngàn sinh viên đã gác bút nghiên để lên đường đánh giặc.
– Phạm Tiến Duật đã ghi lại những hình ảnh tiêu biểu của nơi khói lửa Trường Sơn trong đó có những đoàn xe vận tải vượt qua mưa bom bão đạn của kẻ thù để ra trận.
– Cảm hứng từ những chiếc xe không kính đã làm nền để nhà thơ chiến sĩ khắc hoạ thành công chân dung người chiến sĩ lái xe.
* Hình ảnh những chiếc xe không kính
– Hình ảnh những chiếc xe không kính được tác giả miêu tả trần trụi, chân thực:
Không có kính không phải vì xe không có kính,
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.
+ Đó là những chiếc xe vận tải chở hàng hóa, đạn dược ra mặt trận, bị máy bay Mĩ bắn phá, kính xe vỡ hết.
+ Động từ “giật”, “rung” cùng với từ “bom” được nhấn mạnh hai lần càng làm tăng sự khốc liệt của chiến tranh
→ Hai câu thơ đã giải thích nguyên nhân những chiếc xe lại không có kính, qua đó phản ánh mức độ khốc liệt của chiếc tranh.
* Hình ảnh người lính lái xe
– Tư thế hiên ngang, tự tin hiếm có:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
+ Tính từ ung dung nhấn mạnh tư thế chủ động, coi thường mọi khó khăn, nguy hiểm của các chiến sĩ lái xe.
+ Điệp từ “nhìn”: khí phách kiên cường, như thách đố với khó khăn.
– Thái độ, tinh thần lạc quan, bông đùa với những khó khăn:
+ Bụi phun vào tóc, vào mặt là một trò gây cười, mưa ướt áo cứ đi tiếp vì gió lùa áo khô nhanh thôi, xe không kính cũng có cái hay đó là tầm nhìn rộng hơn, thấy được con đường “chạy thẳng vào tim”, thấy sao trời gần hơn “ùa vào buồng lái”.
→ Những khó khăn gian khổ như tăng lên gấp bội vì xe không có kính nhưng không làm giảm ý chí và quyết tâm của các chiến sĩ lái xe.
+ Điệp từ “ừ thì”: như một cái tặc lưỡi, chép miệng đồng thuận, coi mọi khó khăn là chuyện nhỏ.
→ Thái độ lạc quan, yêu đời, tự tin có chút bướng bỉnh, ngang ngạnh; hình ảnh người lính lái xe hiện lên vừa đáng yêu vừa đáng nể.
– Tình đồng đội thắm thiết, thiêng liêng là sợi dây vô hình nối kết mọi người trong hoàn cảnh hiểm nguy, kề cận cái chết:
+ Tiểu đội xe là “Những chiếc xe từ trong bom rơi” gặp nhau.
+ Tình đồng đội: những cái bắt tay qua “cửa kính vỡ rồi”, là dựng bếp lửa giữa trời, cùng ăn cùng ca hát, cùng mắc võng ngủ trong rừng.
→ Từ trong khó khăn, người lính từ mọi miền xa lạ trở thành “gia đình” của nhau.
– Niềm tin vào chiến thắng:
+ Điệp từ “lại đi”, lí do “vì miền Nam phía trước” : Không gì ngăn cản được các anh đến chi viện cho chiến trường miền Nam.
+ Hình ảnh ẩn dụ “trời xanh thêm” và hoán dụ “trong xe có một trái tim”: tình yêu thương dành cho miền Nam, cho Tổ quốc, là niềm tin và chiến thắng, vào tự do.
→ Hình ảnh “trái tim” là một hoán dụ nghệ thuật đẹp đẽ và đầy sáng tạo, khẳng định phẩm chất cao quý của các chiến sĩ lái xe trên đường ra tiền tuyến lớn.
→ Tất cả cùng chung lí tưởng chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và tin tưởng vào tương lai tươi sáng đang tới rất gần.
* Đánh giá đặc sắc nghệ thuật:
– Kết hợp thể thơ bảy chữ và tám chữ
– Sử dụng các biện pháp tu từ như điệp ngữ, hoán dụ…
– Sáng tạo được những hình ảnh độc đáo có chất liệu hiện thực sinh động
– Ngôn ngữ và giọng điệu giàu tính khẩu ngữ, tự nhiên, khỏe khoắn.
c) Kết bài
– Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
– Liên hệ việc giáo dục phát huy tinh thần chiến đấu cho thế hệ trẻ hiện nay.
Sơ đồ tư duy phân tích
Kiến thức mở rộng
– Ý nghĩa nhan đề bài thơ:
+ Hình ảnh độc đáo, gây ấn tượng mạnh: những chiếc xe không kính
+ Từ bài thơ có vẻ như hơi thừa, nhưng thực ra từ đó lại nằm trong chủ định của tác giả và tạo nên sự liên kết giữa hai sự vật có vẻ xa lạ nhau: “bài thơ” và “xe không kính”. Xe không kính thì chẳng có gì làm nên thơ cả, vậy mà nó đã trở thành hình ảnh trung tâm của một bài thơ. Tác giả đã tìm ra chất thơ ở những điều tưởng chừng rất khô khan, trần trụi. Đó chính là chất thơ từ hiện thực gian khổ, ác liệt ở nơi chiến trường.
→ Cách đặt nhan đề tự nhiên thể hiện sâu sắc phong cách thơ Phạm Tiến Duật: tinh nghịch, sôi nổi, tràn đầy niềm tin vào cuộc sống và chiến đấu. Nhan đề lạ và độc đáo, giàu chất thơ và tạo ấn tượng sâu sắc với người đọc, nhấn mạnh chất thơ của những chiếc xe không kính trần trụi, xấu xí, chất thơ của những người lính lái xe hiên ngang, dũng cảm vượt lên bao khó khăn, hiểm nguy nơi chiến trường để đưa xe về miền Nam tham gia cuộc kháng chiến chống Mĩ lúc bấy giờ.
→ Tác giả đã tìm thấy, phát hiện và khẳng định cái chất thơ, cái đẹp nằm ngay trong hiện thực đời sống bình thường nhất, thậm chí trần trụi, khốc liệt nhất, ngay cả trong sự tàn phá dữ dội, ác liệt của chiến tranh.
– Trong tập thơ nguyên bản, nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng để câu thơ:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ mất rồi”.
Nhưng sau đó được yêu cầu sửa từ “mất rồi” thành từ “đi rồi”, từ “mất” được các chiến sĩ trên đường Trường Sơn nghe nhiều nên không thích từ đó. Trong bài thơ tác giả đã miễn cưỡng thay đổi nhưng vẫn giữ nguyên bản tập thơ là từ “mất”.
Trên đây là những gợi ý chi tiết phân tích bài thơ về tiểu đội xe không kính. Chúc các em học sinh lớp 9 ôn tập thật tốt, để đạt kết quả cao trong học tập.