Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của tác giả Hàn Mặc Tử lớp 11 hay nhất

Dàn ý phân tích bài Đây thôn Vĩ Dạ 

Mở bài phân tích bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”:

  • Giới thiệu tác giả Hàn Mặc Tử: 
    • Tác giả Hàn Mặc Tử là một nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ mới
    • Tác giả có sức sáng tạo mạnh mẽ và đã đóng góp to lớn cho văn học
  • Đặc điểm thơ Hàn Mặc Tử:
    • Thơ Hàn Mặc Tử mang một diện mạo phức tạp, nhưng luôn hiện hữu tình yeu đến đau đớn và sự tương hướng về cuộc sống
    • Tác phẩm của ông thường mang nét lãng mạn, hoài niệm và sự sâu sắc trong tâm trạng. 
  • Giới thiệu bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” 
    • Bài thơ mang tên “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử là một tác phẩm tiêu biểu trong tuyển tập thơ của ông. 
    • Bài thơ tạo dựng một bức tranh về cảnh vật và tâm trạng trong một thôn quê yên bình và tĩnh lặng.

Thân bài: Phân tích bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”

a, Khổ 1:

  • Miêu tả cảnh vật buổi sáng tại thôn Vĩ Dạ 
  • Câu hỏi “Sao anh không về chơi thôn Vĩ” thể hiện lời trách của cô gái và tự trách của tác giả. 
  • Sử dụng hình ảnh nắng và hoa ban để tạo nên một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp và tràn đầy sức sống.
  • Mặt chữ điền và vẻ đẹp của con người thôn quê thể hiện sự phong phú và tràn đầy sức sống của cảnh vật.

b, Khổ 2: 

  • Miêu tả cảnh thiên nhiên trong đêm tại thôn Vĩ Dạ
  • Sử dụng hình ảnh mây, gió, và dòng nước để thể hiện sự chia lìa và buồn bã của tác giả.
  • Hình ảnh thuyền trăng và sông trăng biểu tượng cho hạnh phúc và cõi mơ màng.
  • Sử dụng từ “kịp” để thể hiện mong muốn hoà mình với cuộc sống và theo thời gian.

c, Khổ 3:

  • Tâm sự và chia sẻ của nhà thơ
  • Sử dụng từ: “khách đường xa” để miêu tả cảm giác chưa được đón nhận
  • Sử dụng nghệ thuật hoán dụ và từ ngữ đặc tả sắc trăng để tạo nên sự mơ hồ và ẩn dụ cho sự uẩn khúc trong tâm trạng tác giả
  • Câu hỏi “Ai biết tình ai có đậm đà” thể hiện nỗi hoài nghi và khát khao tìm hiểu về tình yêu.

Kết bài

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử mang đến giá trị nội dung và nghệ thuật thông qua việc sử dụng từ ngữ và hình tượng đặc sắc. Bài thơ tạo ra một bức tranh tuyệt đẹp về cảnh quan thôn quê Vĩ Dạ. Ngoài ra, bài thơ cũng thể hiện tiếng lòng của một nhà thơ yêu đời, mong muốn mãnh liệt được gắn bó với cuộc sống. Bài thơ không chỉ mang đến một khung cảnh đẹp mắt, mà còn truyền tải thông điệp về tình yêu cuộc sống. Tác giả trải lòng mình, sự hoài nghi và mong mỏi trong những câu thơ chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc. Từ đó, bài thơ thể hiện khát khao của tác giả muốn kết nối mình với cuộc sống, thiên nhiên và con người.

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ mẫu 1

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử được coi là một trong những tác phẩm hay nhất trong phong trào Thơ mới. Bài thơ này lần đầu được in trong tập “Nắng xuân” vào năm 1937. Hàn Mặc Tử là một nhà thơ tài năng, nhưng cuộc đời và sự sáng tác của ông đã rất ngắn ngủi từ năm 1912 đến 1940. Ông phải trải qua những khổ đau và đau đớn của bệnh tật và sống trong cảnh cô đơn giữa cuộc sống.

Hàn Mặc Tử là người có nhiều tình cảm, ông lấy cảm hứng cho thơ từ nhiều nguồn khác nhau: lòng tin vào Đức Chúa Trời, và có lúc ông tự nhận mình là “Thi sĩ của đội quân Thánh giá” với nhiều lời cầu nguyện, cũng như tình yêu thiêng liêng dành cho quê hương và những tình yêu đặc biệt như Ngọc Sương, Mộng Cầm, Thương Thương, Hoàng Cúc… “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những bài thơ hay nhất của Hàn Mặc Tử, được tạo nên từ hai nguồn cảm hứng chính: cảnh đẹp của Vĩ Dạ mà trước đó Bích Khê đã viết:

“Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn

Biếc che cần trúc không buồn mà say.”

Thiên nhiên tươi đẹp, làng quê với đất đai thịnh vượng là nguồn cảm hứng giúp tác giả yêu đời và yêu con người. Nguồn cảm hứng thứ hai là tình yêu, một tình yêu hỗn hợp giữa thực tại và tưởng tượng, như một mong muốn được thể hiện. Nhà thơ Quách Tấn đã cho biết Hoàng Cúc đã gửi cho Hàn Mặc Tử một tấm ảnh có phong cảnh của xứ Huế và dòng sông

Hương với một chiếc thuyền, bóng tre và cánh đồng cần trúc hai bên bờ. Tấm ảnh này đã khơi gợi trong Hàn Mặc Tử những cảm xúc và cung cấp cảm hứng cho những bài thơ của ông.

Nhà nghiên cứu Văn Tâm cung cấp thêm thông tin: “Vào khoảng năm 1937, khi nghe tin Hàn Mặc Tử mắc phải căn bệnh nan y, Hoàng Cúc đã gửi từ Quy Nhơn cho Hàn Mặc Tử một bức ảnh chụp ông trong trang phục áo dài trắng của trường Đồng Khánh, kèm theo lời chúc sức khỏe và trách móc vì sao Hàn Mặc Tử lâu rồi không ghé thăm Vĩ Dạ?” Đây chính là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự ra đời của bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.

Câu thơ mở đầu giống như một lời mời, một lời thăm hỏi hoặc một lời trách móc, dường như tất cả đều có và chứa đựng ý nghĩa trong bài thơ:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Thôn Vĩ Dạ nằm bên bờ sông Hương, là một ngôi làng quê xinh đẹp, với nhiều khu vườn xanh tươi. Buổi sáng khi mặt trời vừa mọc, cảnh tượng thiên nhiên rất hấp dẫn, với ánh nắng ban mai và vườn cây tươi tốt, tạo nên sự kết nối mạnh mẽ và tình cảm sâu sắc với cuộc sống. Ở đây, tác giả miêu tả hàng câu tre đứng cao trong buổi bình minh, tạo ra một cái gì đó mạnh mẽ trong thiên nhiên:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.”

Hàng câu còn đánh thức không khí của ngôi làng quê như đã tồn tại từ lâu đời. Nhà thơ Vũ Quần Phương cũng nhận xét: “Câu ‘nắng hàng cau nắng mới lên’ tạo nên một cảm giác về nỗi niềm của làng quê đến đáng ngạc nhiên.”

“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.”

Từ “mướt” được sử dụng khéo léo ở đây, thể hiện sự tươi mát của sự sống trong khu vườn, “mướt” chỉ trạng thái mềm mại, mịn màng của sự phát triển mới. Màu “xanh như ngọc” là một màu xanh lấp lánh, như được lọc qua ánh sáng đẹp và gợi cảm. Đó là một màu xanh ban mai hoặc khi bầu trời đang sáng rực, chỉ có màu xanh như ngọc mới xuất hiện. Có thể so sánh với nhiều từ ngữ khác nhau, những trạng thái, sắc thái của màu xanh: xanh lơ, xanh lục, xanh nõn, xanh thẳm, xanh biếc… Khu vườn chiếm không gian cao với hàng câu tre cao vút, và rộng lớn với cây xanh tươi tốt. Trong những khu vườn đó, hiện lên những khuôn mặt hạnh phúc:

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Ở đây, tác giả miêu tả mối quan hệ hài hòa, phù hợp và gắn bó giữa con người và cảnh vật. Mặc dù chỉ là những nét tả nhẹ nhàng, nhưng cũng gợi lên ấn tượng về những người dân chân chất trong vùng quê, những người lao động trung thực với gương mặt trù phú của người nông dân. Nhìn chung, trong một khổ thơ, tác giả đã miêu tả được vẻ đẹp của vùng quê xứ Huế, đất đai phong phú, cây cối xanh tươi, và vẻ đẹp của một ngôi làng thịnh vượng đã tồn tại từ lâu; cùng với tư duy tích cực và tình yêu đối với cuộc sống.

“Bài thơ ‘Đây thôn Vĩ Dạ’ của Hàn Mặc Tử mang đến những cảm xúc và suy tư sâu sắc về tình yêu đời, tình cảm gắn bó với đất nước và người thân quen. Trong bài thơ, tác giả không chỉ miêu tả vẻ đẹp của làng quê ven sông Hương mà còn thể hiện những cảm xúc và nỗi nhớ thương trong tâm tưởng riêng.

Các dòng thơ trong bài thơ diễn tả những cảm xúc nội tâm và thể hiện qua hình ảnh phù hợp với bên ngoài. Tuy nhiên, tứ thơ không theo một luồng chảy liên tục, mà thường có những ý tứ và hình ảnh bất ngờ xuất hiện. Đất Huế được miêu tả không chỉ với vẻ đẹp thiên nhiên, mà còn với sự phong phú, đa dạng của khung cảnh và tâm trạng của tác giả đối với những kỷ niệm và người thân yêu, tạo nên một cảm xúc buồn.

Trong bài thơ, dòng sông Hương là một điểm tập trung của các nhà thơ khi miêu tả vẻ đẹp đặc biệt của nó. Tác giả Hàn Mặc Tử cũng thể hiện tình yêu đặc biệt dành cho dòng sông này. Đối với Tố Hữu, đó là dòng sông thơ mộng của tuổi thơ và quê hương đã nuôi dưỡng tâm hồn tác giả. Còn với Hàn Mặc Tử, sông Hương trở thành một dòng sông trăng mơ mộng, được miêu tả với nhiều sắc thái khác nhau.

Tác giả Hàn Mặc Tử cũng tạo ra hình ảnh lãng mạn của trăng và nhân cách hóa vầng trăng, miêu tả tình yêu đa tình trong câu thơ. Trong bài thơ, dòng sông Hương được miêu tả như một dòng sông trăng, và con thuyền cũng đầy trăng và cập bến mơ hồ. Tác giả bộc lộ tâm trạng bằng câu thơ cuối cùng, thể hiện sự mơ hồ và mong mỏi của người đi xa, không nhìn thấy được hình ảnh sắc nét của người con gái.

Bài thơ ‘Đây thôn Vĩ Dạ’ là một tác phẩm đẹp, thể hiện vẻ đẹp của thiên nhiên và tình người, cùng với những ước mơ và suy tư sâu sắc của tác giả. Tác phẩm này được đánh giá cao và xem là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Thơ Mới, với sự sáng tạo trong miêu tả quê hương và sự trong trắng, thanh khiết thường thấy trong thơ của nhà thơ.”

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ mẫu 2

“Đây thôn Vĩ Dạ” là một tác phẩm thơ được viết ra từ một nguồn cảm hứng rất đặc biệt. Khi Hàn Mặc Tử lâm bệnh nặng và chờ đợi những giây phút đến với tự thân ở trại phong Quy Hòa, Quy Nhơn, thì nhà thơ đã bất ngờ nhận được một tấm bưu ảnh do người bạn gái là Hoàng Thị Kim Cúc gửi tặng từ thôn Viễn Dạ. Tấm bưu ảnh đó có phong cảnh sông nước đêm trắng, có thuyền và bến. Phía sau đi kèm mấy lời thăm hỏi để an ủi nhà thơ lúc này đang mang căn bệnh hiểm nghèo.

Đối với người bình thường, tấm bưu ảnh chỉ là một quan hệ xã giao thăm hỏi nhau nhưng với Hàn Mặc Tử thì có ý nghĩa rất riêng. Nó đã cho nhà thơ được yêu người trong mộng với một tình yêu sâu kín nỗi lòng. Vì thế mà kiệt tác “Đây thôn Viễn Dạ” đã ra đời. Khổ thứ nhất mở đầu là câu hỏi của một người con gái.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ” Thực ra đây là một lời trách yếu, một sự đòi hỏi hồn thể hiện nỗi trông mong da diết của cô gái ở thôn Viễn. Nhưng trong thực tế thì không có người con gái nào đang trực tiếp đối với Hàn Mặc Tử cả. Lời nói dịu dàng và chưa đầy yêu thương ấy chính là những dòng chữ trong tấm bưu ảnh kia, nó xôn xao, sống dậy, nó trở thành giai điệu và phát ra tiếng nói.

Ở câu thơ thứ hai chúng ta hết sức bất ngờ vì lời mới vừa cất lên thì ngay lập tức Hàn Mặc Tử đã có mặt ngay ở không gian thôn Viễn Dạ. Rõ ràng đây là một cuộc hành trình trong tâm thức.

“Nhìn nắng hàng câu nắng mới lên”

Câu thơ này xuất hiện hai từ “nắng”. Từ “nắng” đầu tiên, được miêu tả là “nhìn nắng hàng câu”, có thể hiểu là ánh sáng mặt trời chiếu xuống, tạo ra hàng loạt những vạch sáng trên mặt nước. Đây là một hình ảnh đẹp và thơ mộng, cho thấy cảnh quan tự nhiên trong thôn Vĩ Dạ. Từ “nắng” thứ hai, được miêu tả là “nắng mới lên”, có thể hiểu là tâm trạng của nhà thơ khi nhìn thấy tấm bưu ảnh và nhận được lời thăm hỏi từ thôn Vĩ Dạ. Nó mang ý nghĩa của ánh sáng, hy vọng, và niềm vui. Đây là sự tỏa sáng trong tâm hồn của nhà thơ, như một niềm tin mới nảy nở.

Cách nhìn của Hàn Mặc Tử từ trước đến nay đã được cho là từ xa đến gần. Khách du lịch có thể thấy ánh nắng hàng cây và khi đến gần khu vườn, họ càng nhìn thấy màu xanh ngọc của cây. Tuy nhiên, thực tế là ông trở về bằng tâm thức mà không nhất thiết phải có một cuộc dạo chơi như vậy.

Đôi mắt của Hàn Mặc Tử đang ở trên cao, trên khu vườn của thôn Viễn Dạ. Nhà thơ đang xé toạt vòm trời đen để nhìn thấy bình minh nắng mới điệu kỳ thập lên từ thôn Viễn Dạ. Không gian nơi có người mình yêu là một khu vườn điạ đàng, là nơi có nhiều phép màu cổ tích. Trở về với thôn Viễn Dạ là trút được những nỗi phiền muộn đoản đau. Vì thế, tâm thức của Hàn Mặc Tử đã đáp hồi khu vườn thôn viễn.

“Vườn ai mượt qua xanh như ngọc”

Câu thơ có đến hai lần xuyt xoa, kinh ngạc. Đã “vườn ai mượt qua” lại còn phát hiện ra cái “mượt qua” ấy là “xanh như ngọc”. Tất cả đều non tơ, tất cả đều xanh tươi, mọi chiếc lá ở đây đều xanh như ngọc. Nó không chỉ cho ta cảm nhận bằng thị giác mà còn cho ta cảm nhận tiếng va chạm của những chiếc lá ngọc.

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Câu thơ cuối khổ một là câu thơ có nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng “mặt chữ điền” chính là khuôn mặt của người con gái đã mời Hàn Mặc Tử về chơi thôn Viễn Dạ. Bởi vì “vườn ai” chính là vườn của em, nhìn thấy khuôn mặt của em trong khu vườn ấy thì rất hợp lý.

Tuy nhiên, nhà thơ Chế Lan Viên – bạn của Hàn Mặc Tử đã rất bất mãn với cách hiểu này, ông cho rằng mặt chữ điền có thể không xấu nhưng nhất định đó là gương mặt không theo chuẩn mực cái đẹp của người Việt Nam khi đánh giá phụ nữ. Cũng có ý kiến lại nói là “mặt chữ điền” là viên gạch có bốn ô vuông thường được xây trên bức bình phong của những ngôi nhà ở thôn Viễn Dạ.

Nếu đọc thơ Hàn Mặc Tử, chúng ta sẽ gặp nhiều hình tượng thế giới kỳ lạ. Việc nhà thơ gặp mình trong quá khứ cũng như trong tương lai là rất phổ biến. Vì thế, dù thật khó tin nhưng ở đây Hàn Mặc Tử đã gặp lại chính mình với gương mặt trẻ thời còn là chàng trai tài hoa nổi danh trên đất Huế.

Nhà thơ muốn yêu một tình yêu trong trắng, thanh thản, đắm say thì phải trở lại là con người của quá khứ, phải là một nhà thơ đa tình phong lưu thời còn ở Huế. Nói đúng ra, là nhà thơ muốn quên mình trong hiện tại với căn bệnh hiểm nghèo để được yêu. Hình tượng “lá trúc che ngang” càng cung cấp cho gương mặt trẻ ấy những nét ngang tàng, phóng khoáng mạnh mẽ của người đàn ông. Lá trúc trong quan niệm xưa chính là biểu hiện cho người quân tử.

Nếu khổ thơ thứ nhất cho chúng ta ấn tượng về buổi sáng, thì khổ thơ thứ hai cho chúng ta ấn tượng về buổi chiều ở một không gian trống rỗng ngoài thôn Viễn Dạ và sau đó là buổi tối với cảnh sông nước con thuyền tràn ngập ánh trăng. Cả bốn câu thơ phần nào gợi cho chúng ta về phong cảnh xứ Huế nhưng thực ra mọi hình tượng đều tồn tại trong những quan hệ nghịch lý, trái tự nhiên.

“Gió theo lối gió, mây đường mây”

Câu thơ thứ hai không chỉ là nghịch lý mà còn là một sự trố treu. Lẽ tự nhiên hoa bắp lay động thì mặt nước phải gợn sóng. Thế nhưng ở đây chỉ có hoa bắp lay động cùng gió để dòng nước một mình buồn thiều. Chẳng thà xa mặt cách lòng như gió với mây còn hơn đứng bên cạnh nhau mà cho nhau nhiều đắng cay, tủi cực.

Đoạn văn mô tả về tâm trạng của nhân vật Hàn Mặc Tử trong bài thơ “Đây thôn Vi Dạ” có sử dụng nhiều biểu đạt hình ảnh và cảm xúc để diễn tả sự tuyệt vọng trong tình yêu.

Trong đoạn văn, Hàn Mặc Tử mô tả cảm giác xa lạ và xa cách của người yêu, người mời anh về thăm Vi nương nhưng càng ngày càng trở nên xa lạ và không thể nắm bắt được. Anh cảm thấy tuyệt vọng và không thể nhìn thấy rõ hình ảnh của người yêu, bởi cô ấy quá trong trắng và thanh cao.

Tác giả sử dụng các biểu đạt như “suông khôi” (trắng) để diễn tả tính trong trắng và cao thượng của người yêu, trong khi đó Hàn Mặc Tử lại không dám nhìn vào vì cảm thấy mặc cảm. Sự tuyệt vọng trong tình yêu của Hàn Mặc Tử được mô tả qua các câu thơ biểu hiện tính bi quan và sự khép kín: “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh” và câu hỏi tuyệt vọng “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Tuyệt vọng trong tình yêu của Hàn Mặc Tử đưa đến sự đau khổ và bi quan. Cảm hứng chính của bài thơ “Đây thôn Vi Dạ” là cảm hứng đau khổ về một tình yêu tuyệt vọng.

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ mẫu 3

Mở bài 

Hàn Mặc Tử là một trong số những cây bút có sức sáng tạo mạnh mẽ và có nhiều đóng góp to lớn cho phong trào thơ Mới. Tuy cuộc đời ngắn ngủi và đau thương song ông đã để lại cho nền văn học Việt Nam một sự nghiệp sáng tác khá đồ sộ với nhiều tác phẩm có giá trị. Những vần thơ của Hàn Mặc Tử mang một diện mạo khá phức tạp nhưnh chúng ta luôn nhận thấy ở đấy tình yêu đến đau đớn song vẫn luôn hướng về cuộc đời. Và có thể nói, Đây thôn Vĩ Dạ là một tring số những bài thơ tiêu biểu cho đặc điểm thơ của Hàn Mặc Tử. 

Thân bài

Trong khổ thơ đầu, tác giả Hàn Mặc Tử đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp về thôn Vĩ Dạ lúc bình minh:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Đoạn thơ này thể hiện sự nhớ nhung và mong muốn gặp lại người được nhắc đến là “anh” ở thôn Vĩ. Người nói cảm thấy rất thiếu anh, và họ mời anh trở về thôn Vĩ để cùng nhau tận hưởng cảnh đẹp của mùa xuân. Cảnh nắng mặt trời mọc lên tạo nên một hình ảnh rực rỡ và tươi mới. Câu thơ “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên” thể hiện sự hân hoan và ngưỡng mộ trước sự tỏa sáng của ánh nắng buổi sáng. Tác giả mô tả vườn cây của ai đó, có lẽ là người mà người nói gửi lời mời đến. Câu thơ “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” diễn tả sự tươi tốt và thịnh vượng của vườn cây, với màu xanh của cỏ cây rực rỡ như ngọc quý. Lá trúc được đặt trong cảnh làm che ngang mặt chữ điền. Câu thơ “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” tạo ra một hình ảnh mát mẻ và tĩnh lặng, nhưng cũng có thể biểu thị sự che đậy và ẩn dấu.

Hình ảnh thôn Vĩ hiện lên qua cái nhìn tha thiết trong ba câu thơ tiếp theo như sau:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Khi chiêm ngưỡng cảnh sắc của thôn Vĩ từ xa gần. Ánh nắng ban mai mới lên làm bừng sáng hàng cây cau. Không gian thôn Vĩ như được nâng lên cao, rộng lớn và thoáng đãng,

Đặc biệt sau đêm tắm gội dưới làn sương, những tàu cây cau trở nên xanh biếc hơn dưới ánh mặt trời. Cụm từ “nắng mới lên” thể hiện ánh nắng sáng rực rỡ và trong trẻo của buổi sáng. Câu thơ vẽ lên hình ảnh đầy sức sống của hàng cây cau. Đang vươn lên mạnh mẽ, sẵn sàng đón ánh nắng ban mai đầu tiên. Ánh nắng mới tinh khôi, trong trẻo, làm sáng tỏ không gian rộng lớn. Gợi lại kỷ niệm về thôn Vĩ, ngay lập tức gợi đến hình ảnh hàng cây cau đầu tiên. Hàng cây cau là biểu tượng gắn bó mật thiết với mỗi người dân thôn Vĩ,

Hình ảnh đơn giản, bình dị ấy lại mang trong mình sức gợi hứng, gợi cảm lớn và ý nghĩa sâu sắc trong lòng nhà thơ. Nhắc đến cây cau cũng là nhắc đến loại cây rất quen thuộc trong làng quê Việt Nam,

Nơi truyền thống ăn trầu từ hàng ngàn năm qua. Nhà thơ Nguyễn Bính, người mang hồn quê và nghệ thuật của quê hương trong tâm hồn. Đã đặt nền tình yêu bình dị của đôi trai gái thôn quê trên nền phong cảnh với hình ảnh thân thuộc của cây cau:

“Nhà anh có một hàng cây cau,

Nhà em có một giàn cây trầu.”

Trong bài thơ “Hoa Lư” của nhà thơ Trần Đăng Khoa, ông đã viết:

“Đường cỏ lơ mơ ngập ánh nắng,

Mái tranh chìm chơi vơi,

Vài tán cây cau mộc mạc,

Hồn quê bay lên trời.”

Ở gần hơn, thôn Vĩ hiện lên với vẻ đẹp của khu vườn tràn đầy sức sống,

“Cảnh vật nào xanh mướt quá đến mức lấp lánh như ngọc.”

Câu thơ giàu sức gợi, như một câu thơ hay (theo lời của nhà thơ Lưu Trọng Lư),

Đưa người đọc vào một không gian xanh của thiên nhiên Vĩ Dạ,

Màu xanh mượt mà, mỡ màng của hàng cây, tạo cảm giác một sức sống tràn đầy, tươi mới.

Tác giả dùng màu xanh như ngọc để diễn tả sức sống và vẻ đẹp của thiên nhiên ở thôn Vĩ,

Màu sắc cao quý, lấp lánh và trong trẻo.

Nếu không có tình yêu sâu sắc đối với đất và người Vĩ Dạ,

Có lẽ nhà thơ Hàn Vạn Sự không thể truyền đạt được những câu thơ trong trẻo như vậy.

Nhà thơ Xuân Diệu viết về vẻ đẹp của khu vườn không xác định nhưng ngầm hiểu đó là khu vườn của cô gái Huế. Bằng cách so sánh với màu xanh ngọc, nhà thơ tạo ra hình ảnh của một viên ngọc đính giữa bầu trời xứ Huế, một vẻ đẹp trong trẻo, dịu dàng và tươi mới. Câu thơ “vườn ai mướt quá” biểu hiện sự trầm trồ, thán phục và ngợi ca đối với chủ nhân của khu vườn đã chăm sóc và làm cho nó thêm đẹp.

Cảnh vật thôn Vĩ càng trở nên đẹp hơn bởi sự hiện diện của con người, đặc biệt là hình bóng của người con gái. Lá trúc, một loại cây tre, nổi tiếng với màu xanh của nó, tạo ra vẻ đẹp hài hòa khi nó che phủ phần mặt chữ điền. Hình ảnh này thể hiện vẻ đẹp phúc hậu, vuông vắn và duyên dáng của người con gái Huế. Nhà thơ Bích Khê cũng viết về trúc, miêu tả vẻ đẹp của nó và tạo nên sự say mê.

Trong các khổ thơ tiếp theo, tâm trạng của nhà thơ thay đổi. Nhà thơ thể hiện một sự mất mát và một tình cảm chia lìa. Dòng sông Hương và núi Ngự, những đặc trưng của xứ Huế, hiện lên với vẻ đẹp riêng của chúng. Nhưng trong mắt Hàn Mặc Tử, cảnh vật trở nên chia lìa và mang một sắc thái buồn rã. Dòng sông chảy chậm rãi, và những vườn bắp nhẹ nhàng lay động tưởng chừng như buồn bã. Nhà thơ tạo ra hình ảnh của một nỗi sầu thương chất ngất chảy trong dòng nước và làm cho tâm cảnh của mình gắn liền với ngoại cảnh.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử thể hiện nỗi buồn và tình yêu đơn phương vô vọng của thi nhân. Bức tranh tâm trạng buồn bã và xa cách được phác họa thông qua các yếu tố tự nhiên như gió, mây, dòng sông và hoa bắp. Thi nhân cảm nhận sự chia lìa giữa gió và mây, cảm nhận dòng sông trở nên buồn thiu và hoa bắp chỉ khẽ lay động, tạo nên bức tranh nỗi buồn hiu quạnh. Trong bài thơ, Hàn Mặc Tử sử dụng hình ảnh của trăng như một người bạn, người tình tưởng chừng vô hình không thể thiếu trong cuộc sống tâm hồn của thi nhân. Trăng trở thành một yếu tố tượng trưng thường xuất hiện trong thơ ca của Hàn Mặc Tử, đại diện cho tình yêu và sự mong đợi.

Câu hỏi “Có chở trăng về kịp tối nay?” tạo nên sự day dứt, mong ước và lo sợ. Nó biểu thị niềm hy vọng đầy khắc khoải và tin yêu, đồng thời cảm thấy bi kịch và hoài nghi của thi nhân. Hàn Mặc Tử cảm nhận thời gian trôi qua trong sự bất lực của mình và câu hỏi này thể hiện sự khao khát sống mãnh liệt trong tình hình gần kề cái chết.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” sử dụng nhiều biện pháp tu từ như điệp từ, nhân hóa, so sánh, câu hỏi tu từ để tạo ra một khung cảnh thơ mộng, đầy sức sống và phản ánh nỗi lòng của nhà thơ. Mặc dù sống trong mơ, nhưng thi nhân không mất đi hy vọng và luôn mong ước một cách mãnh liệt.

Tuyển tập 5 kết bài Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất 

1. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” sử dụng nhiều biện pháp tu từ như điệp từ, nhân hóa, so sánh, câu hỏi tu từ để tạo ra một khung cảnh thơ mộng, đầy sức sống và phản ánh nỗi lòng của nhà thơ. Mặc dù sống trong mơ, nhưng thi nhân không mất đi hy vọng và luôn mong ước một cách mãnh liệt.

2. Tác giả sử dụng các biểu đạt như “suông khôi” (trắng) để diễn tả tính trong trắng và cao thượng của người yêu, trong khi đó Hàn Mặc Tử lại không dám nhìn vào vì cảm thấy mặc cảm. Sự tuyệt vọng trong tình yêu của Hàn Mặc Tử được mô tả qua các câu thơ biểu hiện tính bi quan và sự khép kín: “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh” và câu hỏi tuyệt vọng “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Tuyệt vọng trong tình yêu của Hàn Mặc Tử đưa đến sự đau khổ và bi quan. Cảm hứng chính của bài thơ “Đây thôn Vi Dạ” là cảm hứng đau khổ về một tình yêu tuyệt vọng.

3. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử mang đến giá trị nội dung và nghệ thuật thông qua việc sử dụng từ ngữ và hình tượng đặc sắc. Bài thơ tạo ra một bức tranh tuyệt đẹp về cảnh quan thôn quê Vĩ Dạ. Ngoài ra, bài thơ cũng thể hiện tiếng lòng của một nhà thơ yêu đời, mong muốn mãnh liệt được gắn bó với cuộc sống. Bài thơ không chỉ mang đến một khung cảnh đẹp mắt, mà còn truyền tải thông điệp về tình yêu cuộc sống. Tác giả trải lòng mình, sự hoài nghi và mong mỏi trong những câu thơ chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc. Từ đó, bài thơ thể hiện khát khao của tác giả muốn kết nối mình với cuộc sống, thiên nhiên và con người.

4. Trong tác phẩm “Đây thôn Vĩ Dạ”, Hàn Mặc Tử đã sáng tác một khúc đoản ca tình yêu và khao khát, mở ra một mảnh vườn và đồng thời khám phá một mảnh đời. Đặc điểm đặc biệt của bài thơ nằm ở nghệ thuật đặc trưng theo phong cách riêng của Hàn Mặc Tử. Bằng những hình ảnh tượng trưng đậm ý nghĩa và câu hỏi tu từ được khéo léo đặt trên các câu thơ mang ý niệm riêng, bài thơ tạo ra sự cách điệu hóa, pha trộn giữa thực tế và hư ảo. “Mai sau, những thứ tầm thường và hạn chế sẽ biến mất, và chỉ còn lại một ít đáng quan tâm trong thời kỳ này, và đó chính là Hàn Mặc Tử.” Đây là lời tôn trọng mà người bạn thơ Chế Lan Viên đã gửi đến Hàn Mặc Tử, miêu tả những gì ông để lại cho thế hệ sau này. Mãi mãi sẽ được trân trọng như vậy…

5. “Bài thơ khép lại với một câu hỏi tu từ, mang trong đó nỗi hoài nghi và thất vọng. Vĩ Dạ vẫn đẹp, nhưng mang trong nó một nỗi buồn, và lòng người cũng buồn nhưng đẹp. Tất cả cùng tạo nên sự hòa quyện giữa cảnh vật và tình cảm.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” đã vượt qua thời gian và vẫn đầy sức sống qua các thế hệ người đọc. Nó không chỉ là một bức tranh yên bình và tươi đẹp về Vĩ Dạ, mà còn là một tấm lòng đậm chất yêu thiên nhiên và khao khát sống và yêu thương của Hàn Mặc Tử.”